Thế kỷ II TCN, ngôn ngữ và văn tự Hán được truyền bá vào Giao Châu. Tuy nhiên, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, Nho giáo chưa xác lập được vị trí đáng kể.
Khi đất nước độc lập tự chủ, các triều đại Lý, Trần chủ động tiếp thu Nho giáo trong việc xây dựng và phát triển đất nước như: dựng Văn Miếu (1070), mở khoa thi Minh kinh bác học (1075), lập Quốc Tử Giám (1076), đặt danh hiệu tam khôi (1247): Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cho 3 người xuất sắc nhất trong những người thi đỗ.
Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, triều Lê đặc biệt quan tâm đến giáo dục và đào tạo nhân tài. Nho giáo đóng vai trò quốc giáo. Các quy định liên quan đến thi Hương, thi Hội, thi Đình, những ân điển dành cho người thi đỗ (lễ xướng danh, ban mũ áo Tiến sĩ, ban yến, vinh quy bái tổ, khắc tên trên bia Tiến sĩ…) ngày càng hoàn thiện và tiếp tục duy trì ở các triều đại sau. Triều đình cho tu bổ và mở rộng Quốc Tử Giám. Việc học tập ở cấp địa phương (phủ, lộ, trấn) cũng được quan tâm và đẩy mạnh.
Thời Nguyễn, Văn Miếu - Quốc Tử Giám chuyển vào Phú Xuân, Huế.
Tính từ khoa thi Nho học đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919, cả nước có 2898 vị đỗ đại khoa. Giáo dục Nho học đã có đóng góp đáng kể trong việc tạo ra tầng lớp trí thức của xã hội Việt Nam thời phong kiến.